Năm 2015 có lẽ sẽ đi vào lịch sử tranh cử tổng thống Mỹ như một trong những năm “lạ” nhất, theo cả nghĩa tích cực lẫn tiêu cực. Và trung tâm của cái sự “lạ” đó, không ai khác chính là cái tên: Donald Trump. Trump đã “nhảy bổ vào chiến dịch tranh cử tổng thống Mỹ theo đúng nghĩa đen của từ này” (như lời nhận xét của một nhà nghiên cứu chính trị), và chưa bao giờ thái độ của công chúng với một ứng viên lại phân cực đến thế: hoặc vô cùng mến mộ, hoặc vô cùng ghê tởm.
“Các ông nói, còn tôi làm!”
“Thằng hề chính trị” là từ mà nhiều người dùng để mô tả về chân dung tranh cử của Donald Trump. Quả thật, lịch sử nước Mỹ chưa từng xuất hiện một ứng viên tổng thống… mất tư cách đến thế: từ cách ăn nói bạt mạng, những nhận xét đầy màu sắc phân biệt chúng tộc và giới tính cho đến những ý tưởng cải cách khôi hài. Nhưng mặc kệ những lời chỉ trích, Trump vẫn liên tục dẫn điểm so với các ứng cử viên tỏ ra “đoan chính” khác. Chiêu bài của Trump thực ra rất đơn giản: đánh vào cảm xúc của công chúng vốn đã quá chán ngán với những nhà lãnh đạo chỉ giỏi nói mà không giỏi làm.
“Chúng ta bị dẫn dắt bởi những kẻ rất, rất ngốc” là một trong những phát ngôn “sốc” nhất của Trump. Trump còn mỉa mai rằng chẳng mấy người trong giới cầm quyền Mỹ có thể điều hành nổi một công ty của ông. Còn mức lương cao nhất mà giới CEO của các tập đoàn Mỹ đang nhận là đáng hổ thẹn vì họ chẳng được trò trống gì. Những ngôn từ thực dụng và luôn hướng đến kết quả đã thường xuyên được Trump sử dụng: “Tôi sẽ tạo ra những thương vụ tuyệt vời”, “tôi sẽ không bao giờ có những giao dịch tệ hại như thế”. Dù yêu hay ghét Trump, công chúng cũng không thể phủ nhận Trump đã nói ra điều mà họ mong muốn từ trong sâu thẳm: những lời hứa hẹn của các nhà lãnh đạo sẽ được hiện thực hóa, và những chiến lược quốc gia, chiến lược doanh nghiệp “đẹp như mơ” sẽ không chỉ là chuyện trên giấy!
Để chiến lược quốc gia và doanh nghiệp không còn là chuyện trên giấy
“Cơn sốt Trump” đã hạ nhiệt dần so với lúc đầu, khi mà bản thân những lời Trump nói cũng bộc lộ chính những mâu thuẫn với những gì Trump làm trong thực tế. Nhưng nó đã khiến cho giới lãnh đạo không chỉ ở Mỹ mà còn nhiều quốc gia khác buộc phải nhìn thẳng vào một vấn đề: tại sao chuyện thực thi một chiến lược cho quốc gia hay cho doanh nghiệp của mình trong thực tế lại khó khăn đến thế? Do chiến lược dở ư? Không hẳn! Một chiến lược được mang ra tranh cử hẳn là đã phải được xây nên bởi bao nhiêu cái đầu uyên bác, chưa kể là phải sống sót được qua bao nhiêu vòng “ném đá” của công chúng. Do nhà lãnh đạo thiếu tâm hay thiếu khả năng ư? Có thể có một phần như vậy, nhưng khó mà tin những người được công chúng chọn lựa trong một cuộc bầu cử dân chủ như ở Mỹ là những người hoàn toàn không có chút năng lực nào!
Theo Balanced Scorecard (thường được dịch là “Thẻ Điểm Cân Bằng”, gọi tắt là BSC) – công cụ quản trị chiến lược hữu hiệu và phổ biến nhất thế giới hiện nay do hai Tiến sĩ thuộc đại học Harvard là Robert Kaplan và David Norton nghiên cứu và công bố, những nguyên nhân phổ biến dẫn đến sự thất bại của một chiến lược là:
Thứ nhất, chiến lược thường được vạch ra dưới dạng những bản tuyên ngôn rất “kêu” như “thành một nước công nghiệp hàng đầu”, hay “trở thành công ty dẫn đầu thị trường về…”. Dễ thấy những chiến lược kiểu này quá mơ hồ, không được cụ thể thành những mục tiêu rõ ràng để những người liên quan đến nó có thể dựa vào đó mà thực thi. Năm 1958, tổng thống Kennedy từng “xóa sổ” một bản tuyên ngôn gồm 8 điều đao to búa lớn kiểu như vậy của NASA bằng một mục tiêu vô cùng cụ thể, ngắn gọn và có thời hạn rõ ràng: “Quốc gia này nên tự hứa với mình là, trước khi thập kỷ này kết thúc, sẽ đạt được mục tiêu đưa một người lên mặt trăng và đưa anh ta trở về trái đất an toàn”. Và chuyện ngành hàng không vũ trụ Hoa Kỳ đã thực thi chiến lược đó như thế nào là chuyện ai cũng đã được chứng kiến.
Một nguyên nhân khác mà Balanced Scorecard cũng chỉ ra là khát khao hiện thực hóa chiến lược thường bị “tắc” lại ở cấp lãnh đạo mà không đi xuống được đội ngũ triển khai bên dưới, không làm cho chiến lược tổ chức trở thành một phần trong công việc hàng ngày của họ. Phỏng vấn một nhóm lãnh đạo bất kỳ, thế nào cũng “tóm” được một người than thở hệt như Donald Trump đã than, chỉ khác là hai chủ thể trong câu được đổi vị trí: “Chúng ta đang phải dẫn dắt những người rất, rất ngốc!”.
Ngoài ra, còn có những nguyên nhân khác như: các chủ thể trong quá trình triển khai chiến lược không có sự kết nối chung, thiếu sự phối hợp đồng bộ; hay sự biến động liên tục của môi trường xung quanh dễ khiến cho một chiến lược dài hạn trở nên cứng nhắc, thiếu tính linh hoạt…
Rất nhiều cơ quan chính phủ lẫn tập đoàn kinh doanh nổi tiếng của Mỹ như Hạ viện Hoa Kỳ, Cơ quan Không lực Hoa Kỳ, Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ, tập đoàn vận chuyển hàng hóa UPS, hãng viễn thông Verizon… đã áp dụng “Phương pháp 9 bước” nổi tiếng của Balanced Scorecard Institute (BSI) Hoa Kỳ để hoạch định và triển khai chiến lược thành công. Ở các quốc gia khác thì có ngân hàng Tokyo Mitsubishi, công ty điện tử Philips Bộ Quốc Phòng Anh, Sở Cảnh Sát Hoàng gia Canada…. Và hiện 80% tập đoàn trong Top 500 Fortune trên khắp thế giới đã áp dụng phương pháp Balanced Scorecard để triển khai chiến lược của mình và nhờ vậy họ đã làm được nhiều chuyện đáng nể chứ không chỉ là nói!
(Trường PACE)

Tư vấn thiết lập KPI,
Tư vấn thiết lập KPI theo Balanced Scorecard,
Đào tạo và huấn luyện Balanced Scorecard,
balanced scorecard thẻ điểm cân bằng,
balanced scorecard là gì,
balanced scorecard example,
balanced scorecard of vinamilk,
balanced scorecard Vietnam,
balanced scorecard pdf,
bảng điểm cân bằng,
mô hình bsc là gì,
mô hình thẻ điểm cân bằng,
thẻ điểm cân bằng pdf,
thẻ điểm cân bằng của vinamilk,
sách thẻ điểm cân bằng,
ứng dụng thẻ điểm cân bằng,
thẻ điểm cân bằng download,
thẻ điểm cân bằng ebook,
mô hình bsc là gì,
kpi mẫu,
chỉ tiêu kpi là gì,
cách xây dựng kpi,
kpi là gì trong marketing,
cách tính kpi,
kpi là gì Wikipedia,
kpi đánh giá hiệu quả công việc,
kpi là viết tắt của từ gì,
kpis là gì,
what is kpi,
kpi mẫu,
cách xây dựng kpi,
kpi là gì trong marketing,
kpi đánh giá hiệu quả công việc,
cách tính kpi,
kpi viết tắt của từ gì,
bsc và kpi là gì,
ứng dụng bsc và kpi trong quản trị doanh nghiệp,
bsc trong viễn thông là gì,
bsc là viết tắt của từ gì,
bsc viết tắt của từ gì,
bsc chung khoan,
bsc kpi,
bsc degree là gì,
Nhiều người khi mới tiếp cận “Balanced scorecard” thường thắc mắc: “Balanced scorecard nghĩa là gì?”. Cụm từ “ balanced scorecard” xuất phát từ Mỹ, nếu dịch sang tiếng Việt, e rằng khó tìm được cụm từ tương đương hoặc nếu có thì có thể gây hiểu nhầm không cần thiết cho người đọc. Vì vậy, tạm thời chúng ta nên sử dụng nguyên mẫu là “Balanced scorecard”, và gọi tắt là “BSC”.
Vào đầu thập niên 1990, hai Giáo sư Tiến sĩ Kaplan & Norton của trường Đại học Harvard là những người đầu tiên phát triển hệ thống Balanced scorecard. Hai giáo sư đã phát hiện một vấn đề khá nghiêm trọng là rất nhiều công ty có khuynh hướng quản lý doanh nghiệp chỉ dựa đơn thuần vào chỉ số tài chính. Điều này là phù hợp trong quá khứ, nhưng trong thế giới kinh doanh hiện nay đòi hỏi doanh nghiệp phải quản lý dựa trên một bộ các chỉ số đo tốt hơn và hoàn thiện hơn.
Chỉ số đo tài chính là cần thiết, nhưng chỉ số này chỉ cho chúng ta biết điều đã xảy ra trong quá khứ, nơi mà hoạt động kinh doanh đã xảy ra. Chỉ số tài chính không cho chúng ta biết vấn đề gì sẽ xảy ra ở phía trước và trong tương lai hoạt động doanh nghiệp sẽ ra sao. Điều này cho thấy, chúng ta đang điều hành doanh nghiệp tương tự như ta đang lái xe ô tô chỉ bằng cách nhìn vào gương chiếu hậu!
Vậy nói một cách đơn giản BSC là gì? BSC là một hệ thống quản lý, nó giúp cho doanh nghiệp thiết lập, thực hiện, giám sát, đo lường để đạt được các chiến lược & các mục tiêu của mình. Sau khi các doanh nghiệp thiết lập và phát triển các chiến lược, doanh nghiệp sẽ triển khai, thực hiện & giám sát chiến lược thông qua 4 khía cạnh: tài chính, khách hàng, quá trình hoạt động nội bộ, học tập & phát triển. Bốn khía cạnh này sẽ tạo ra sự khác biệt giữa doanh nghiệp thành công và doanh nghiệp thất bại. Bốn khía cạnh này có thể được diễn giải đơn giản như sau:
Tài chánh: doanh nghiệp đo lường và giám sát các yêu cầu & các kết quả về tài chính
Khách hàng: đo lường và giám sát sự thỏa mãn khách hàng và các yêu cầu về các kết hoạt động đáp ứng các nhu cầu đòi hỏi của khách hàng.
Quá trình nội bộ: đo lường & giám sát các chỉ số và các yêu cầu của các quá trình trọng yếu trong nội bộ doanh nghiệp hướng đến khách hàng
Học tập & phát triển: tập trung vào cách thức doanh nghiệp giáo dục & đào tạo nhân viên, nâng cao kiến thức và cách thức doanh nghiệp đã sử dụng các kiến thức này để duy trì lợi thế cạnh tranh trong thị trường.
Hai Giáo Sư Kaplan & Norton đã mô tả đơn giản mô hình BSC như sau (hình 1):

Các tính chất của mô hình BSC:
Từ mô hình trên, nếu xem xét tính thời gian từ dưới lên trên, chúng ta thấy rằng: ví dụ lợi nhuận đạt được tại thời điểm hiện nay của tổ chức, thực sự là kết quả của những điều đã được tổ chức thực hiện tại tháng trước, quý trước hoặc năm trước. Nếu một số các kỹ năng mới, kiến thức mới, hiện nay doanh nghiệp đưa vào áp dụng thì có thể sẽ tạo ra các kết quả tài chính và sự hiệu quả vào năm tới.
BSC bao gồm các khía cạnh nội bộ ( khía cạnh quá trình nội bộ rất quan trọng với mọi doanh nghiệp) lẫn khía cạnh bên ngoài (khía cạnh khách hàng cũng cực kỳ quan trọng với doanh nghiệp)
BSC hàm chứa các mối quan hệ nhân quả giữa các khía cạnh (hình 2):

Để thành công khía cạnh tài chính : doanh nghiệp cần phải thỏa mãn khách hàng để họ sẽ mua sản phẩm/ dịch vụ của mình, đồng thời doanh nghiệp cũng phải nâng cao hiệu quả về tài chính bằng cách cải tiến vượt trội các quá trình nội bộ quan trọng trong doanh nghiệp
Để thỏa mãn khách hàng: doanh nghiệp cần cải tiến vượt trội các quá trình tác nghiệp nội bộ để sản phẩm/ dịch vụ sẽ đáp ứng nhu cầu khách hàng
Để cải tiến các quá trình nội bộ: doanh nghiệp cần phải học tập & phát triển những điều cần thiết để phục vụ cho các quá trình nội bộ & khách hàng.
Mối quan hệ nhân quả BSC:
Tóm lại: BSC là một hệ thống quản lý nhằm thiết lập, triển khai thực hiện và giám sát việc đạt được các chiến lược, các mục tiêu của tổ chức một cách khoa học. Đồng thời BSC cũng đo lường đánh giá kết quả hoạt động của tổ chức trên cơ sở 4 khía cạnh: Tài chính, khách hàng, các quá trình nội bộ, học tập & phát triển. Từ đó giúp tổ chức phát hiện ra các cơ hội cải tiến & đột phá nhằm đem lại sự thành công & phát triển bền vững ở hiện tại và tương lai trong môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt.
Việc đánh giá định kỳ sự mạnh / yếu của một tổ chức nên dựa vào 4 khía cạnh nêu trên, điều này cũng tương tự như chúng ta tiến hành khám sức khỏe định kỳ cá nhân, phải được các bác sĩ đánh giá dựa trên một bộ chỉ so đo hợp lý nhằm tránh các chẩn đoán nhầm lẫn khi chỉ dựa trên một vài chỉ số đo không phù hợp.
(Sưu tầm)

các doanh nghiệp ứng dụng erp thành công,
các công ty triển khai erp tại việt nam,
hướng dẫn sử dụng phần mềm erp,
phần mềm erp là gì,
nghề tư vấn triển khai erp,
tư vấn triển khai erp là gì,
tuyển dụng tư vấn triển khai erp,
khoa hoc sap erp,
hệ thống erp là gì,
ứng dụng erp tại vinamilk,
nghề tư vấn triển khai erp,
hướng dẫn sử dụng phần mềm erp,
dự án erp là gì,
tìm hiểu về erp,
khoa hoc sap erp,
Theo định nghĩa của bản nghiên cứu, SMBs là những DN có ít hơn 500 nhân viên và doanh thu dưới 500 triệu USD/năm. DN lớn là các DN có trên 500 nhân viên và doanh thu trên 500 triệu USD/năm, không tính các công ty đa quốc gia và các tổ chức có quy mô cực lớn.
Từ hình bên cho thấy có sự khác biệt nhiều về tỷ lệ thị phần các giải pháp (GP) ERP giữa phân khúc dành cho SMBs với phân khúc dành cho DN lớn. Trong đó, tỷ lệ thị phần GP ERP của Microsoft có sự khác biệt đáng kể nhất. Nếu như với thị trường dành cho DN lớn, Microsoft chỉ chiếm 6% thì trên thị trường SMBs, con số này là 22%. SAP và Oracle tuy tỷ lệ có thay đổi nhưng vẫn giữ vị trí đứng đầu. Theo đó, với thị trường DN lớn, SAP và Oracle lần lượt giữ 43% và 33%, sang thị trường SMBs lần lượt là 30% và 24%.Các GP ERP (phân khúc II-các GP chuyên cho SMBs) chiếm thị phần tương ứng 17% cho DN lớn và 24% cho SMBs. Có cảm giác rằng miếng bánh thị phần trong phân khúc SMBs được chia đều hơn cho các GP ERP.
Tình hình triển khai ERP tại SMBs
Thực tế cho thấy chi phí và thời gian triển khai phụ thuộc rất nhiều vào quy mô DN cũng như phạm vi triển khai. Theo nghiên cứu, những tổ chức lớn, trung bình cần 25 tháng để hoàn thành một dự án ERP (bảng 1). Các tổ chức quy mô cực lớn, cần thời gian trung bình là trên 3 năm, gấp 2 lần so với thời gian triển khai tại các SMBs. Những số liệu này khẳng định, các tổ chức có quy mô càng lớn, độ phức tạp càng cao thì thời gian triển khai ERP càng kéo dài.
Bên cạnh sự chênh lệch thời gian triển khai còn có sự khác biệt lớn về chi phí triển khai giữa các dự án ERP của SMBs so với các dự án của tổ chức lớn. Tổng chi phí triển khai trung bình của các dự án ERP được nghiên cứu là 8,5 triệu USD, nhưng với các dự án ERP cho SMBs chỉ là 3,1 triệu USD. Trong khi đó, các DN quy mô lớn phải chi một con số khổng lồ là 24,1 triệu USD cho một dự án ERP.
Tỷ lệ giữa chi phí cho một dự án ERP và doanh thu hàng năm của DN cũng là một thước đo đáng quan tâm. Kết quả nghiên cứu chỉ ra tỷ lệ trung bình của tất cả các GP là 9%, với SMBs là 10,5% và với các tổ chức lớn là 4,9%.
Ngân sách và chi phí triển khai
Chi phí triển khai phụ thuộc vào rất nhiều thành tố như mức độ tùy chỉnh, quy mô, phạm vi triển khai, độ phức tạp của các nghiệp vụ và nhiều thành tố khác. Kết quả nghiên cứu của Panorama cho thấy có 3 phần chính cấu thành nên chi phí triển khai:
Chi phí triển khai liên quan đến kỹ thuật: Bao gồm chi phí bản quyền, cài đặt kỹ thuật, kiểm tra, tích hợp, nâng cấp phần cứng và máy chủ, chi phí vận hành và hỗ trợ hàng năm, chi phí hosting phần mềm.
Chi phí triển khai liên quan đến nội tại DN: Bao gồm chi phí cho các hoạt động quản lý chuyển đổi, tái cấu trúc quy trình kinh doanh, đào tạo, nhân sự cho đội dự án.
Các chi phí khác.
Các SMBs và các DN lớn thường tốn trên 70% ngân sách triển khai vào phần kỹ thuật. Chỉ khoảng16% dành cho các vấn đề liên quan trong nội tại DN và chi phí tư vấn cho bên thứ 3. Số liệu nghiên cứu chỉ ra rằng, phần lớn các dự án ERP thất bại hay gặp khó khăn có liên quan đến việc dành quá ít ngân sách cho khoản mục thứ 2 này.
Một điều mà mọi người luôn ngầm hiểu đó là chi phí triển khai ERP thực tế bao giờ cũng lớn hơn kế hoạch ngân sách đặt ra. Bảng 2 cho thấy, chỉ 5,4% các SMBs triển khai ERP với chi phí dưới mức ngân sách dự kiến, trong khi đó với các tổ chức lớn thì không hề có điều này. 35% SMBs và 36% các DN lớn triển khai với chi phí dao động khoảng 5% so với ngân sách.
Dù triển khai vượt ngân sách là vấn đề không mong muốn đối với bất kỳ DN nào, tuy nhiên với các SMBs thì tác động của điều này nghiêm trọng hơn nhiều so với các tổ chức lớn. Như đã chỉ ra trong phần I của bản nghiên cứu, nguyên nhân chính gây ra việc tăng chi phí triển khai bao gồm: việc đánh giá sai trong quá trình làm việc với các nhà cung cấp, kế hoạch triển khai không sát, không kiểm soát được phạm vi dự án…
Các vấn đề khác trong triển khai ERP
| SMBs | DN lớn | |
Thời gian triển khai (tháng) | 18,8 | 25,2 | |
Chi phí triển khai (triệu USD) | 3,07 | 24,07 | |
Chi phí/doanh thu (%) | 10,5 | 4,9 | |
Vượt dưới 5% ngân sách (%) | 40,5 | 35,9 | |
Vượt từ 5-100% ngân sách (%) | 59,5 | 64,1 | |
Thành viên dự án | 14 | 74 | |
Mức độ chỉnh sửa | Thấp | Cao | |
Bảng 1: So sánh tổng thể giữa SMBs và DN lớn | |
Chúng ta thường thấy các DN lớn đòi hỏi nhiều thành viên (là nhân viên DN) tham gia dự án hơn là các SMBs. Điều này có thể lý giải bởi mức độ phức tạp trong các quy trình nghiệp vụ cũng như phạm vi triển khai. Tuy nhiên câu hỏi đặt ra là sự khác biệt này cụ thể như thế nào?
Trung bình, tại các DN lớn, cần 28 thành viên tham gia với vai trò nòng cốt, cùng 15 chuyên viên ERP. Ngược lại, tại các SMBs, chỉ có 6 thành viên và 3 chuyên viên ERP. Sự chênh lệch này còn lớn hơn khi khảo sát cho thấy số lượng các thành viên dự án của đối tác, trung bình trong các dự án ERP tại các SMBs là 3 người, trong khi các DN lớn là 31 người. Những số liệu này lý giải một trong những rủi ro khi triển khai ERP tại SMBs chính là vấn đề nguồn lực dự án.
Ngoài ra, một yếu tố khác cũng ảnh hưởng tới chi phí, độ phức tạp cũng như thời gian triển khai của một dự án ERP đó là mức độ tùy chỉnh GP.
Kết luận
Hơn một thập kỷ qua, phân khúc SMBs đã trở thành phân khúc có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất trên thị trường ERP. Có 3 nguyên nhân chính lý giải điều này:
Các nhà cung cấp GP tên tuổi trên thị trường đã chú ý hơn đến phân khúc này với việc đẩy mạnh phát triển các GP với chi phí thấp và tính năng phù hợp với các SMBs.
Ngày càng xuất hiện nhiều các nhà cung cấp GP phân khúc II như Epicor, Infor, Sage…với sự đa dạng về GP giúp các SMBs có thêm nhiều lựa chọn hơn
Các SMBs đang tăng trưởng với tốc độ chóng mặt thời gian gần đây, kèm theo đó là sự mở rộng về qui mô, lĩnh vực sản xuất kinh doanh, các nghiệp vụ cũng như yêu cầu về quản trị đòi hỏi phải có các hệ thống hỗ trợ hiệu quả như ERP.
(Xem từ số TGVT B tháng 6/2009)
Lê Hưng

các doanh nghiệp ứng dụng erp thành công,
các công ty triển khai erp tại việt nam,
hướng dẫn sử dụng phần mềm erp,
phần mềm erp là gì,
nghề tư vấn triển khai erp,
tư vấn triển khai erp là gì,
tuyển dụng tư vấn triển khai erp,
khoa hoc sap erp,
hệ thống erp là gì,
ứng dụng erp tại vinamilk,
nghề tư vấn triển khai erp,
hướng dẫn sử dụng phần mềm erp,
dự án erp là gì,
tìm hiểu về erp,
khoa hoc sap erp,
Theo định nghĩa của bản nghiên cứu, SMBs là những DN có ít hơn 500 nhân viên và doanh thu dưới 500 triệu USD/năm. DN lớn là các DN có trên 500 nhân viên và doanh thu trên 500 triệu USD/năm, không tính các công ty đa quốc gia và các tổ chức có quy mô cực lớn.
Từ hình bên cho thấy có sự khác biệt nhiều về tỷ lệ thị phần các giải pháp (GP) ERP giữa phân khúc dành cho SMBs với phân khúc dành cho DN lớn. Trong đó, tỷ lệ thị phần GP ERP của Microsoft có sự khác biệt đáng kể nhất. Nếu như với thị trường dành cho DN lớn, Microsoft chỉ chiếm 6% thì trên thị trường SMBs, con số này là 22%. SAP và Oracle tuy tỷ lệ có thay đổi nhưng vẫn giữ vị trí đứng đầu. Theo đó, với thị trường DN lớn, SAP và Oracle lần lượt giữ 43% và 33%, sang thị trường SMBs lần lượt là 30% và 24%.Các GP ERP (phân khúc II-các GP chuyên cho SMBs) chiếm thị phần tương ứng 17% cho DN lớn và 24% cho SMBs. Có cảm giác rằng miếng bánh thị phần trong phân khúc SMBs được chia đều hơn cho các GP ERP.
Tình hình triển khai ERP tại SMBs
Thực tế cho thấy chi phí và thời gian triển khai phụ thuộc rất nhiều vào quy mô DN cũng như phạm vi triển khai. Theo nghiên cứu, những tổ chức lớn, trung bình cần 25 tháng để hoàn thành một dự án ERP (bảng 1). Các tổ chức quy mô cực lớn, cần thời gian trung bình là trên 3 năm, gấp 2 lần so với thời gian triển khai tại các SMBs. Những số liệu này khẳng định, các tổ chức có quy mô càng lớn, độ phức tạp càng cao thì thời gian triển khai ERP càng kéo dài.
Bên cạnh sự chênh lệch thời gian triển khai còn có sự khác biệt lớn về chi phí triển khai giữa các dự án ERP của SMBs so với các dự án của tổ chức lớn. Tổng chi phí triển khai trung bình của các dự án ERP được nghiên cứu là 8,5 triệu USD, nhưng với các dự án ERP cho SMBs chỉ là 3,1 triệu USD. Trong khi đó, các DN quy mô lớn phải chi một con số khổng lồ là 24,1 triệu USD cho một dự án ERP.
Tỷ lệ giữa chi phí cho một dự án ERP và doanh thu hàng năm của DN cũng là một thước đo đáng quan tâm. Kết quả nghiên cứu chỉ ra tỷ lệ trung bình của tất cả các GP là 9%, với SMBs là 10,5% và với các tổ chức lớn là 4,9%.
Ngân sách và chi phí triển khai
Chi phí triển khai phụ thuộc vào rất nhiều thành tố như mức độ tùy chỉnh, quy mô, phạm vi triển khai, độ phức tạp của các nghiệp vụ và nhiều thành tố khác. Kết quả nghiên cứu của Panorama cho thấy có 3 phần chính cấu thành nên chi phí triển khai:
Chi phí triển khai liên quan đến kỹ thuật: Bao gồm chi phí bản quyền, cài đặt kỹ thuật, kiểm tra, tích hợp, nâng cấp phần cứng và máy chủ, chi phí vận hành và hỗ trợ hàng năm, chi phí hosting phần mềm.
Chi phí triển khai liên quan đến nội tại DN: Bao gồm chi phí cho các hoạt động quản lý chuyển đổi, tái cấu trúc quy trình kinh doanh, đào tạo, nhân sự cho đội dự án.
Các chi phí khác.
Các SMBs và các DN lớn thường tốn trên 70% ngân sách triển khai vào phần kỹ thuật. Chỉ khoảng16% dành cho các vấn đề liên quan trong nội tại DN và chi phí tư vấn cho bên thứ 3. Số liệu nghiên cứu chỉ ra rằng, phần lớn các dự án ERP thất bại hay gặp khó khăn có liên quan đến việc dành quá ít ngân sách cho khoản mục thứ 2 này.
Một điều mà mọi người luôn ngầm hiểu đó là chi phí triển khai ERP thực tế bao giờ cũng lớn hơn kế hoạch ngân sách đặt ra. Bảng 2 cho thấy, chỉ 5,4% các SMBs triển khai ERP với chi phí dưới mức ngân sách dự kiến, trong khi đó với các tổ chức lớn thì không hề có điều này. 35% SMBs và 36% các DN lớn triển khai với chi phí dao động khoảng 5% so với ngân sách.
Dù triển khai vượt ngân sách là vấn đề không mong muốn đối với bất kỳ DN nào, tuy nhiên với các SMBs thì tác động của điều này nghiêm trọng hơn nhiều so với các tổ chức lớn. Như đã chỉ ra trong phần I của bản nghiên cứu, nguyên nhân chính gây ra việc tăng chi phí triển khai bao gồm: việc đánh giá sai trong quá trình làm việc với các nhà cung cấp, kế hoạch triển khai không sát, không kiểm soát được phạm vi dự án…
Các vấn đề khác trong triển khai ERP
| SMBs | DN lớn | |
Thời gian triển khai (tháng) | 18,8 | 25,2 | |
Chi phí triển khai (triệu USD) | 3,07 | 24,07 | |
Chi phí/doanh thu (%) | 10,5 | 4,9 | |
Vượt dưới 5% ngân sách (%) | 40,5 | 35,9 | |
Vượt từ 5-100% ngân sách (%) | 59,5 | 64,1 | |
Thành viên dự án | 14 | 74 | |
Mức độ chỉnh sửa | Thấp | Cao | |
Bảng 1: So sánh tổng thể giữa SMBs và DN lớn | |
Chúng ta thường thấy các DN lớn đòi hỏi nhiều thành viên (là nhân viên DN) tham gia dự án hơn là các SMBs. Điều này có thể lý giải bởi mức độ phức tạp trong các quy trình nghiệp vụ cũng như phạm vi triển khai. Tuy nhiên câu hỏi đặt ra là sự khác biệt này cụ thể như thế nào?
Trung bình, tại các DN lớn, cần 28 thành viên tham gia với vai trò nòng cốt, cùng 15 chuyên viên ERP. Ngược lại, tại các SMBs, chỉ có 6 thành viên và 3 chuyên viên ERP. Sự chênh lệch này còn lớn hơn khi khảo sát cho thấy số lượng các thành viên dự án của đối tác, trung bình trong các dự án ERP tại các SMBs là 3 người, trong khi các DN lớn là 31 người. Những số liệu này lý giải một trong những rủi ro khi triển khai ERP tại SMBs chính là vấn đề nguồn lực dự án.
Ngoài ra, một yếu tố khác cũng ảnh hưởng tới chi phí, độ phức tạp cũng như thời gian triển khai của một dự án ERP đó là mức độ tùy chỉnh GP.
Kết luận
Hơn một thập kỷ qua, phân khúc SMBs đã trở thành phân khúc có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất trên thị trường ERP. Có 3 nguyên nhân chính lý giải điều này:
Các nhà cung cấp GP tên tuổi trên thị trường đã chú ý hơn đến phân khúc này với việc đẩy mạnh phát triển các GP với chi phí thấp và tính năng phù hợp với các SMBs.
Ngày càng xuất hiện nhiều các nhà cung cấp GP phân khúc II như Epicor, Infor, Sage…với sự đa dạng về GP giúp các SMBs có thêm nhiều lựa chọn hơn
Các SMBs đang tăng trưởng với tốc độ chóng mặt thời gian gần đây, kèm theo đó là sự mở rộng về qui mô, lĩnh vực sản xuất kinh doanh, các nghiệp vụ cũng như yêu cầu về quản trị đòi hỏi phải có các hệ thống hỗ trợ hiệu quả như ERP.
(Xem từ số TGVT B tháng 6/2009)
Lê Hưng

các doanh nghiệp ứng dụng erp thành công,
các công ty triển khai erp tại việt nam,
hướng dẫn sử dụng phần mềm erp,
phần mềm erp là gì,
nghề tư vấn triển khai erp,
tư vấn triển khai erp là gì,
tuyển dụng tư vấn triển khai erp,
khoa hoc sap erp,
hệ thống erp là gì,
ứng dụng erp tại vinamilk,
nghề tư vấn triển khai erp,
hướng dẫn sử dụng phần mềm erp,
dự án erp là gì,
tìm hiểu về erp,
khoa hoc sap erp,
Theo định nghĩa của bản nghiên cứu, SMBs là những DN có ít hơn 500 nhân viên và doanh thu dưới 500 triệu USD/năm. DN lớn là các DN có trên 500 nhân viên và doanh thu trên 500 triệu USD/năm, không tính các công ty đa quốc gia và các tổ chức có quy mô cực lớn.
Từ hình bên cho thấy có sự khác biệt nhiều về tỷ lệ thị phần các giải pháp (GP) ERP giữa phân khúc dành cho SMBs với phân khúc dành cho DN lớn. Trong đó, tỷ lệ thị phần GP ERP của Microsoft có sự khác biệt đáng kể nhất. Nếu như với thị trường dành cho DN lớn, Microsoft chỉ chiếm 6% thì trên thị trường SMBs, con số này là 22%. SAP và Oracle tuy tỷ lệ có thay đổi nhưng vẫn giữ vị trí đứng đầu. Theo đó, với thị trường DN lớn, SAP và Oracle lần lượt giữ 43% và 33%, sang thị trường SMBs lần lượt là 30% và 24%.Các GP ERP (phân khúc II-các GP chuyên cho SMBs) chiếm thị phần tương ứng 17% cho DN lớn và 24% cho SMBs. Có cảm giác rằng miếng bánh thị phần trong phân khúc SMBs được chia đều hơn cho các GP ERP.
Tình hình triển khai ERP tại SMBs
Thực tế cho thấy chi phí và thời gian triển khai phụ thuộc rất nhiều vào quy mô DN cũng như phạm vi triển khai. Theo nghiên cứu, những tổ chức lớn, trung bình cần 25 tháng để hoàn thành một dự án ERP (bảng 1). Các tổ chức quy mô cực lớn, cần thời gian trung bình là trên 3 năm, gấp 2 lần so với thời gian triển khai tại các SMBs. Những số liệu này khẳng định, các tổ chức có quy mô càng lớn, độ phức tạp càng cao thì thời gian triển khai ERP càng kéo dài.
Bên cạnh sự chênh lệch thời gian triển khai còn có sự khác biệt lớn về chi phí triển khai giữa các dự án ERP của SMBs so với các dự án của tổ chức lớn. Tổng chi phí triển khai trung bình của các dự án ERP được nghiên cứu là 8,5 triệu USD, nhưng với các dự án ERP cho SMBs chỉ là 3,1 triệu USD. Trong khi đó, các DN quy mô lớn phải chi một con số khổng lồ là 24,1 triệu USD cho một dự án ERP.
Tỷ lệ giữa chi phí cho một dự án ERP và doanh thu hàng năm của DN cũng là một thước đo đáng quan tâm. Kết quả nghiên cứu chỉ ra tỷ lệ trung bình của tất cả các GP là 9%, với SMBs là 10,5% và với các tổ chức lớn là 4,9%.
Ngân sách và chi phí triển khai
Chi phí triển khai phụ thuộc vào rất nhiều thành tố như mức độ tùy chỉnh, quy mô, phạm vi triển khai, độ phức tạp của các nghiệp vụ và nhiều thành tố khác. Kết quả nghiên cứu của Panorama cho thấy có 3 phần chính cấu thành nên chi phí triển khai:
Chi phí triển khai liên quan đến kỹ thuật: Bao gồm chi phí bản quyền, cài đặt kỹ thuật, kiểm tra, tích hợp, nâng cấp phần cứng và máy chủ, chi phí vận hành và hỗ trợ hàng năm, chi phí hosting phần mềm.
Chi phí triển khai liên quan đến nội tại DN: Bao gồm chi phí cho các hoạt động quản lý chuyển đổi, tái cấu trúc quy trình kinh doanh, đào tạo, nhân sự cho đội dự án.
Các chi phí khác.
Các SMBs và các DN lớn thường tốn trên 70% ngân sách triển khai vào phần kỹ thuật. Chỉ khoảng16% dành cho các vấn đề liên quan trong nội tại DN và chi phí tư vấn cho bên thứ 3. Số liệu nghiên cứu chỉ ra rằng, phần lớn các dự án ERP thất bại hay gặp khó khăn có liên quan đến việc dành quá ít ngân sách cho khoản mục thứ 2 này.
Một điều mà mọi người luôn ngầm hiểu đó là chi phí triển khai ERP thực tế bao giờ cũng lớn hơn kế hoạch ngân sách đặt ra. Bảng 2 cho thấy, chỉ 5,4% các SMBs triển khai ERP với chi phí dưới mức ngân sách dự kiến, trong khi đó với các tổ chức lớn thì không hề có điều này. 35% SMBs và 36% các DN lớn triển khai với chi phí dao động khoảng 5% so với ngân sách.
Dù triển khai vượt ngân sách là vấn đề không mong muốn đối với bất kỳ DN nào, tuy nhiên với các SMBs thì tác động của điều này nghiêm trọng hơn nhiều so với các tổ chức lớn. Như đã chỉ ra trong phần I của bản nghiên cứu, nguyên nhân chính gây ra việc tăng chi phí triển khai bao gồm: việc đánh giá sai trong quá trình làm việc với các nhà cung cấp, kế hoạch triển khai không sát, không kiểm soát được phạm vi dự án…

Các vấn đề khác trong triển khai ERP
| SMBs | DN lớn | |
Thời gian triển khai (tháng) | 18,8 | 25,2 | |
Chi phí triển khai (triệu USD) | 3,07 | 24,07 | |
Chi phí/doanh thu (%) | 10,5 | 4,9 | |
Vượt dưới 5% ngân sách (%) | 40,5 | 35,9 | |
Vượt từ 5-100% ngân sách (%) | 59,5 | 64,1 | |
Thành viên dự án | 14 | 74 | |
Mức độ chỉnh sửa | Thấp | Cao | |
Bảng 1: So sánh tổng thể giữa SMBs và DN lớn | |
Chúng ta thường thấy các DN lớn đòi hỏi nhiều thành viên (là nhân viên DN) tham gia dự án hơn là các SMBs. Điều này có thể lý giải bởi mức độ phức tạp trong các quy trình nghiệp vụ cũng như phạm vi triển khai. Tuy nhiên câu hỏi đặt ra là sự khác biệt này cụ thể như thế nào?
Trung bình, tại các DN lớn, cần 28 thành viên tham gia với vai trò nòng cốt, cùng 15 chuyên viên ERP. Ngược lại, tại các SMBs, chỉ có 6 thành viên và 3 chuyên viên ERP. Sự chênh lệch này còn lớn hơn khi khảo sát cho thấy số lượng các thành viên dự án của đối tác, trung bình trong các dự án ERP tại các SMBs là 3 người, trong khi các DN lớn là 31 người. Những số liệu này lý giải một trong những rủi ro khi triển khai ERP tại SMBs chính là vấn đề nguồn lực dự án.
Ngoài ra, một yếu tố khác cũng ảnh hưởng tới chi phí, độ phức tạp cũng như thời gian triển khai của một dự án ERP đó là mức độ tùy chỉnh GP.
Kết luận
Hơn một thập kỷ qua, phân khúc SMBs đã trở thành phân khúc có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất trên thị trường ERP. Có 3 nguyên nhân chính lý giải điều này:
Các nhà cung cấp GP tên tuổi trên thị trường đã chú ý hơn đến phân khúc này với việc đẩy mạnh phát triển các GP với chi phí thấp và tính năng phù hợp với các SMBs.
Ngày càng xuất hiện nhiều các nhà cung cấp GP phân khúc II như Epicor, Infor, Sage…với sự đa dạng về GP giúp các SMBs có thêm nhiều lựa chọn hơn
Các SMBs đang tăng trưởng với tốc độ chóng mặt thời gian gần đây, kèm theo đó là sự mở rộng về qui mô, lĩnh vực sản xuất kinh doanh, các nghiệp vụ cũng như yêu cầu về quản trị đòi hỏi phải có các hệ thống hỗ trợ hiệu quả như ERP.
(Xem từ số TGVT B tháng 6/2009)
Lê Hưng